Tiên Phả Dịch Lục tác phẩm đầy đủ kể về cội nguồn Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Nhân dịp tháng khánh tiệc Đức Quốc Mẫu Phủ Dầy, xin giới thiệu du khách thập phương tư liệu “TIÊN PHẢ DỊCH LỤC – 僊譜譯錄” – tư liệu cổ này đã được phủ Thống sứ Bắc kỳ phê duyệt, tác giả Đốc học tỉnh Bắc Giang Kiều Oánh Mậu biên soạn, hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam – Kho tàng thư tịch cổ Hán Nôm. Có thể nói tư liệu cung cấp đầy đủ thông tin về lịch sử của Mẫu, từ khi Mẫu giáng sinh tại An Thái thôn quê, tới những câu chuyện khi Mẫu còn tại thế cho đến khi Mẫu trở về trời…
Kính mời quý khách đón đọc bản dịch và chia sẻ để đông đảo cộng đồng được biết về nơi cội nguồn của Đức Thánh Mẫu thần chủ.
Nam mô Thiên Tiên Thánh Mẫu đại từ tôn 🙏🙏🙏
❤ Truyện Thần Mẫu xã Tiên Hương
Giá Sơn kính đề​
Ngày 2 tháng đầu mùa hạ (tháng 4) năm Canh Tuất – niên hiệu Duy Tân (1910)
Khởi bút từ ngày 1 tháng 3, đến ngày 29 dịch xong, đến ngày 2 tháng 4 viết xong lời tựa và hoàn thành.
Ngày 10 tháng 5 năm 1910 Dương lịch.

✔ Phần 1: Đại ý tổng quát

Trời Nam chung tú mới kỳ,
Bốn người bất tử lại vì nữ Tiên.
Thần Phù Đổng, Thánh Tản Viên,
Đánh Ân, dẹp Thục công yên nước nhà.
Chử Đồng Tử truyện sách ta,
Lam Sơn chân chúa hiển ra mách người.​
Nguyễn Minh Không chốn Phật đài,
Thần thông lục trí nước ngoài biết tên.
Nay người đệ nhị cung tiên,
Phong lưu Ngọc Quýnh Hoa trên thiên đình.
Sáng soi thiện ác rành rành,
Thay trời họa phúc quyền hành một phương.
Kìa kìa hiển tích rõ ràng,
Chớ đem mắt quỷ coi thường người tiên.
Tiên Hương xã ấy huyện Thiên,
Về Sơn Nam trấn cạnh miền núi Gôi.

✔ Phần 2: Đời trước tích lũy

Khí thiêng hội lại mấy đời,
Phả ghi cao tổ vốn nòi Trần gia.
Hồ – Minh gặp loạn lánh ra,
Đổi theo Lê tính quê nhà mẫu hương.
Xưa kia An Thái tên làng,
Hẹp ngôi cát trạch, rộng đường thiện lân.
Cho hay nhân mọc có nhân,
Gia tư súc tích muôn phần giàu sang.
Thiên tai mấy độ cơ hoang,
Mọi nơi già trẻ một trường thí ân.
Ba đời con thánh cháu thần,
La Hào chốn ấy tổ phần dời sang.
Nghĩ câu thần tứ khôn lường,
Thái ông đương lúc mơ màng biết ai.
Bốn mươi tuổi mới một trai,
Âm công càng tích đơn sai chẳng hề.

✔ Đoạn 3: Tiên chúa giáng trần

Anh Tông vừa thuở hậu Lê,
Thái bà Trần thị nặng bề hoài thai.
Dạ mang đã quá kỳ rồi,
Phút đâu một bệnh đứng ngồi không yên.
Miệng thời bén những mùi thiền,
Trân cam chẳng chút dâng lên bữa thường.
Tính thời ưa những hoa hương,
Bụi trần chẳng chút trong trường phồn hoa.
Nặng nề nay lại mai qua,
Trong ngoài tưởng những ma tà khơi trêu.
Bùa khua quái, chĩnh trừ yêu,
Mười phần bệnh thế chẳng tiêu một phần.
Cửa ngoài bỗng có đạo nhân,
Áo bào, khăn cát trong sân tiến vào.
Gia nhân từ tạ xôn xao,
Thái ông nghe tiếng mời chào bên trong.
Cao tay hàng hổ phục long,
Thông thiên mật chúc hương xông chưa tàn.
Tay gieo búa ngọc trước đàn,
Thái ông phút đã mê man trong nhà.
Thấy hai lực sĩ đi ra,
Thành vàng lầu ngọc một tòa cao cao.
Chín lần cửa mới bước vào,
Tả vu đứng trực ai nào biết ai.
Trông lên thọ tiệc xuân khai,
Quần tiên hội chúc bên ngai Ngọc hoàng.
Hồng y bỗng thấy một nàng,
Đưa dâng chén ngọc vội vàng sẩy tay.
Tả ban một vị đứng ngay,
Mở xem quyển bạ viết đây mấy dòng.
Viết rồi đi lại bên trong,
Thị nhi thấy dẫn người hồng y ra.
Thái ông phảng phất ngoài xa,
Nhận tường sắc giáng chữ là không sai.
Dẫn đi có một kim bài,
Nam nam lại thấy có hai chữ đề.
Thái ông lúc đó đứng nghe,
Hỏi hai lực sĩ mọi bề đinh ninh.
Trước sau mới tỏ sự tình,
Tiên cung đệ nhị thiên đình trích ra.
Cửa trong chợt có tiếng la,
Người đâu tào tạp huyên hoa chốn này?
Thái ông vừa tỉnh giấc say,
Thềm huyên vừa đến sớm ngày nở hoa.
Mỹ miều nguyệt điện Hằng Nga,
Ngoài hiên bỗng sáng, trong nhà thơm bay.
Gia nhân vui vẻ mừng thay,
Đạo nhân phút đã hạc mây phương nào.
Thái ông tưởng sự chiêm bao,
Biết rằng người chốn Tiên tào mới sa.
Giáng Tiên khi đặt tên nhà,
Năm đầu Thiên Hựu tháng Ba ngày Dần.
Cho hay mộng đó mà chân,
Lòng người thành chính, qủy thần đâu xa.
Mê tâm ví chửa tinh ra,
Chân thân có đó cũng là mộng thôi.
Tuệ căn đã sớm mọc rồi,
Dẫu trong trần tục mà người tiên cung.

✔ Đoạn 4: Tiên chúa trưởng thành

Nâng niu xiết nỗi nhà trong,
Thố qua ác lại đã vòng cập kê.
Da tuyết đọng, tóc mây che,
Non xa xuân đạm, nước khe thu nhàn.
Giang sơn linh tú đuốc sang,
Kim thân một dạng ngọc nhan khác thường.
Ngày đêm vui thú thanh nhàn,
Muôn phô dạ chép, nghìn hàng mắt qua.
Bút nghiên khuya sớm thiết tha,
Thi từ âm luật lại là tài riêng.
“Xuân quang hảo” đã một thiên,
“Hạ thời lại” “Cách phố liên” có bài.
“Bộ thiềm thu tứ” kém ai,
Đông thời lại điệu “Tiễn mai” nối vần.
Tài tình tiếng dậy xa gần,
Giáng Tiên, Tùy trước, non phân chẳng nhường.
Thái ông hết tấc yêu thương,
Vườn hoa mới sửa, tịnh đường bên sau.
Một mình riêng một trang lâu,
Hoa xuân bốn phía, trăng thu nửa rèm.
Cầm thư ngày nối lấy đêm,
Sang sảng tiếng đọc lẫn thêm tiếng đàn.
Lầu vàng chứa lấy người vàng,
Nguyên Long trăm thước ai ngang giá này.

✔ Phần 5: Trời sinh đôi lứa

Vân Đình, giáp Nhị kề đây,
Nhà quan có một tôi ngay đời Trần.
Tiện nơi sẵn quán mẫu thân,
Đã dòng dõi cũ lại lân hữu tình.
Muộn màng giấc mộng chưa hình,
Cảnh sầu hỏi nguyệt, bộ hành thăm hoa.
Dưới đào nghe tiếng oa oa,
Động lòng thu lấy về nhà thử nuôi.
Đào Lang nhân đặt tên rồi,
Phong tư tinh tú cũng người trời sinh.
Nào hay rằng nghĩa minh linh,
Càng trong quấn quýt, càng tình thân yêu.
Cùng làng đi lại đã nhiều,
Một đà vừa một, đôi điều tốt đôi.
Vấn danh nạp thái đủ thôi,
Trang liêm sắp sửa cho người nghi gia.
Quan thư nổ tiếng thi ca,
Ngoài thờ cô cậu, trong hòa lương nhân.
Ai hay cách biệt tiên trần,
Dâu con cũng việc tảo tần khác chi.

✔ Phần 6: Phòng hương sớm tối

Từ phen vui chữ xướng tùy,
Ngẩn ngơ Sinh mới Lễ, Thi biếng nhìn.
Vừa khi canh cửi trời đêm,
Hai mươi tám vị sao trên soi người.
Khuyên chồng thác ý thi chơi,
Nào câu Khuê bích, nào lời Đẩu tinh.
Liễu văn kìa truyện đinh ninh,
Chủ trương xin phải tâm thanh nữ phòng.
Xem thơ Sinh đã biết lòng,
Đảo vần họa lại mấy dòng nên chương.
Trong thơ ý tứ khoe khoang,
Thôn đẩu quật tỉnh, tinh quang giốc tài.
Gửi lời Chức Nữ một hai,
Hán – Trương, Đường – Liễu thua ai trên đời.
Thấy thơ lại phải hết lời,
Một câu một chữ tranh bày làm chi.
Ngày xanh xin chớ bỏ đi,
Nghìn thu sự nghiệp một thì công phu.
Mấy câu ném ngọc đưa châu,
Sinh rằng cuồng phóng bấy lâu dại nhiều.
Bây giờ khuyên nhủ đến điều,
Lòng vàng đã dãi, sớm chiều dám quên.
Trong khi cánh chắp, cành liền,
Ba sinh trên đá, tấm nguyền dưới khe.
Tình trong xiết nỗi ủ ê,
Tốt nơi ngô phượng, vui bề trúc loan.
Ba năm chăn gối vội vàng,
Vừa tuần xuân cuối, hoa tàn lộc phơi.
Cạnh bên lò lửa hai người,
Tình đầm đầm ấm, lệ rơi rơi đầy.
Sinh vừa thất sắc hỏi ngay,
Nhỏ to mới kể sự ngày Đế hương.
Thiếp xưa thượng giới một nàng,
Tiệc xuân chén ngọc nhỡ nhàng sẩy tay.
Thiên Tào án luật định ngay,
Hai mươi năm đó, xuống đày trần gian.
Tóc tơ kết nghĩa cùng chàng,
Hạn kỳ đã đến Thiên đàng lại lên.
Cũng là túc thế nhân duyên,
Bi, hoan, ly, hợp ở trên định rồi.
Thôi, thôi, thôi cũng đành thôi,
Lệ hồng chan chứa than ôi ích gì.
Trời hôm mây kéo mưa đi,
Người thời không bệnh hồn thì đâu xa.
Giữa năm Đinh Sửu, tháng Ba,
Mồng ba ngày ấy, tiết là Thanh minh.
Mới hai mươi mốt tuổi xanh,
Ba năm duyên vắn, tấm tình bể sâu.
Cây đa chốn ấy mộ khâu,
Phân minh Tốn hướng Thổ lưu Kim hình.
Đôi bên ai chẳng xót tình,
Đứt dây này nỗi Đào – Sinh càng dầu.
Biết bao gió thảm mưa sầu,
Nào bài biệt hạc, nào câu ai hồng.
Kể sao xiết nỗi tình chung,
Lạ lùng này sự tiên trong cõi trần.

✔ Phần 8: Nhớ ngày khó nhọc

Thoi đưa ngày tháng lần lần,
Đại tường lại gặp đến tuần trùng tam.
Thái bà nhớ thuở trân cam,
Hoa lâu tới chốn thư am mỗi ngày.
Gió chiều phấp phới rèm bay,
Mặt trời bóng xế soi ngay thềm nhà.
Phòng thêu tơ nhện giăng qua,
Phím đàn, quản bút mọt sa bụi lầm.
Nhớ người dạ những âm thầm,
Bấy giờ thấy cảnh khôn cầm giọt riêng.
Nhà trong lăn lóc cây huyên,
Gió thơm đâu thảng cạnh bên một người.
Hai tay ôm lấy tận nơi,
Mẹ ơi, con những phương trời khát khao.
Thái bà mừng sợ xiết bao,
Hỏi rằng con ở chốn nào lại đây.
Tưởng rằng tử biệt từ ngày,
Hay là con vẫn xưa rày trường sinh.
Nghe lời chưa kịp giãi tình,
Hai hàng nước mắt, chảy quanh khôn dừng.
Tin Hằng đã xuống dưới trăng,
Đôi bên thân thuộc vội mừng trước sau.
Thấy hai lão phụ càng đau,
Rằng con thất hiếu bấy lâu không đành.
Sớm khuya mong chốn gia đình,
Bốn thân được thỏa một mình mới yên.
Nào hay bất trắc cơ huyền,
Khôn ngoan ai dễ tranh quyền hóa nhi.
Hãy xin hỷ xả từ bi,
Tấm lòng để lại con đi cho đành.
Thấy anh dặn với đinh ninh,
Thần hôn xin đỡ, tấm thành em đây.
Đào sinh đứng đó người ngây,
Chút riêng chưa kịp giãi bày một hai.
Xiêm nghê nhác thấy gió bay,
Vội vàng sinh mới cầm tay kéo vào.
Khóc rằng duyên sẵn đã trao,
Trước dầu phận bạc, nay sao nỡ lìa.
Ví dầu mưa rẽ, mây chia,
Bên trời xin cũng theo về một nơi.
Thiết tình lại phải hết lời,
Rằng duyên kiếp thế có trời đất chung.
Thiếp từ trở lại Thiên cung,
Chút riêng ân ái nghìn trùng xét soi.
Tiên tào đã gửi tấu rồi,
Cõi trần lại được bên ngoài thong dong.
Đội ơn mấy chữ sắc phong,
Hiệu nay Liễu Hạnh, theo công chúa hàng.
Thiếp xưa thượng giới tiên nương,
Chàng nay đế sở tinh lang xuống trần.
Tơ duyên xe đã một lần,
Mà trong bể ái muôn phần càng sâu.
Vài mươi năm nữa chẳng lâu,
Gặp nhau ta lại cùng nhau vội gì.
Nói xong dứt áo ra đi,
Xe mây ngựa gió thấy chi nữa nào.
Thiên Thai khi lại trở vào,
Lưu Lang chưa dễ hỏi chào Ngọc Chân.
Người tiên đây bạn kiếp trần,
Càng trong âu yếm càng phần ái ân.
Cha cha, mẹ mẹ, con con,
Trăm năm ghi để tấm son lâu dài.
Chồng chồng, vợ vợ, ai ai,
Nghìn thu dấu để trên đời lửa hương.
Đã khi biến hóa không thường,
Từng phen đi lại mỗi đường thăm nom.

✔ Phần 9: Dạo chơi thắng cảnh

Tới ngày thung héo, huyên mòn,
Hoa đào vắng mặt, năm còn gió đông.
Chút riêng bận bịu đã không,
Một mình dầu mới rộng lòng vân du.
Khi nguyệt điện, khi hoa cù,
Khi xuân oanh rước, khi thu nhạn mời.
Khi Lãng Uyển, khi Bồng Lai,
Khi nay Lăng Tử khi mai cửa Huyền.
Khi thời mỹ nữ thanh niên,
Mình theo bóng tố ngâm thiên trước đình.
Khi thời lão mụ ẩn hình,
Tay nương gậy trúc chơi quanh bên đường.
Thần thông biến hiện từng phương,
Cầu bay, thuyền khí tầm thường chớ khinh.
Kìa kìa nước biếc non xanh,
Mọi nơi danh thắng, một mình trải qua.

✔ Phần 10: Gặp sứ giả ở chùa Thiên Minh

Thiên Minh chùa, tỉnh Lạng ta,
Âm thanh cảnh vắng xem ra vui lòng.
Tham thiền rồi mới quạnh trông,
Một ngồi chiếc ghế dưới tùng thảnh thơi.
Đàn đâu sẵn nhịp ca chơi,
Cõi rừng u điểu, cõi trời cô vân.
Đầy ngàn thơm nức hoa xuân,
Nước reo phách suối, gió luồn đàn thông.
Bốn bề bụi sạch người không,
Vỗ dây mấy tiếng thỏa lòng tiêu dao.
Sơn lâm vui biết là bao,
Nghìn trùng tiên cảnh so vào kém đâu.
Hát rồi ai kẻ họa sau,
Xa đưa có tiếng đọc câu rành rành.
Câu rằng Tam mộc sâm đình,
Hảo hề nữ tử đem tình ướm ai.
Trông ra thấy có một người,
Khăn dài, áo rộng cũng loài thư hương.
Tiết mao dẫn trước trên đường,
Ruổi rong một ngựa kỷ cương mấy thằng.
Gần gần chúa đã biết chừng,
Tiếng vàng sang sảng thử chăng một lần.
Trùng sơn xuất lộ câu thần,
Đem câu “sứ giả lại nhân” đối liền.
Xem tài cũng chắc rằng tiên,
Vội vàng xuống ngựa đứng bên hỏi tường.
Xa xa chúa lại chỉ sang,
Kìa trong núi ấy là làng nhà đây.
Nghe thôi, sứ giả đọc ngay,
Sơn nhân tiên nữ thử nay xem tài.
Chúa liền đáp lại giả lời,
Đem câu văn tử hỡi người học sinh.
Biết tài mà phải phục tình,
Tay giơ một vái hồn kinh đâu rồi.
Vào chùa tìm khắp mọi nơi,
Từ bi nào thấy Như Lai mách người.
Tuyệt mù tung tích nào ai,
Bước ra rồi lại chùa ngoài đứng trông.
Ngang đường thấy ngã cây tùng,
Rõ ràng “Mão – Khẩu” chữ công chúa đề.
Xem ra lòng sứ càng ghê,
Cạnh cây bốn chữ bút phê lại rành.
Chữ trên “Băng – Mã” đã đành,
Dưới liền “Dĩ – Tẩu” phân minh một dòng.
Suy ra ý tứ ở trong,
Rằng ta Phùng tính khởi công đó mà.
Tức thời phụ lão gọi ra,
Kim ngân để lại, Phật tòa sáng thêm.
Rõ ràng hiển hiện cho xem,
Bốn câu ghi lấy làm tin sau này.

✔ Phần 11: Ngâm vịnh nối tiếp ở Hồ Tây

Đông Kinh xe hạc lại bay,
Khi hôm trong phố, khi nay ngoài thành.
Báo Thiên rồi lại Hoành Đình,
Hòe Nhai rồi lại hiện hình Đông Tân.
Đi đi lại lại mấy lần,
Dấu tiên quanh đó mắt trần ai hay.
Phùng quan Bắc sứ về ngay,
Bạ thư lại phải đêm ngày chốn công.
Tưởng câu tiêu sái ngoài vòng,
Dẫu cho đeo ấn đã ông nào bằng.
Nhớ nhau dì gió, chị trăng,
Hồ Tây khi đó nay mừng không xa.
Rượu bầu đàn túi xách ra,
Lý, Ngô hai gã bạn nhà thiếu niên.
Vừa khi tháng hạ gió sen,
Hương thơm muôn hộc lọt bên thuyền người.
Cảnh thanh đầy một bầu trời,
Lão Phùng nhân hứng thơ chơi một bài.
Bôn ba danh lợi trên đời,
Nhàn thân phút đã bên ngoài Hồ Tây.
Bồng Lai là chuyện đặt bày,
Dẫu tiên, dẫu tục ở ngay lòng người.
Thấy thơ Ngô cũng đua bày,
Huống ta ngoại tục khi trời trung trinh.
Nhởn nhơ gió mát trăng thanh,
Rộng lòng đâu chẳng tênh tênh Tây Hồ.
Dòng tao, gã Lý nào thua,
Hoa mời liễu rước cùng đua thơ thuyền.
Giữa dòng chén cạn giấc êm,
Bừng con mắt dậy, câu tiên lệ gì.
Người phóng dật, kẻ thanh kỳ,
Thi trung khí tượng ai thì kém ai.
Gió đâu mùi quế hương lơi,
Có khi ả Tố tận nơi đón mời.
Trông nhau nói nói cười cười ,
Đường đê thẳng ruổi ba người trước sau.
Dãy hòe trong chốn sâu sâu,
Nhác trông thấy có tửu lâu một tòa.
Biển son bốn chữ nét hoa,
“Tây Hồ phong nguyệt” giữa nhà treo trên.
Cửa ngoài chữ thảo đôi bên,
“Hồ trung thành ngoại”, câu liền ngũ ngôn.
Nhàn nhật nguyệt, tiểu càn khôn,
Phong tao dường ấy thi hồn đã mê.
Áo hồng thấp thoáng rèm the,
Cách bình lại rõ đứng kề mỹ nhân.
Lý ta lên tiếng ngoài sân,
Chốn này đài Sở, lầu Tần nào đây.
Thừa nhàn được buổi hôm nay,
Chiếu hoa mượn trải hội bày đình lan.
Rằng đây điếm mới Liễu nương,
Người nay phong nhã văn chương ngại gì.
Thừa lời đã có thị nhi,
Rèm the cao cuốn rước thi ông ngồi.
Ba người sửa áo đến nơi,
Nam song gió mát Hoàng Mai rượu mời.
Vách đông thấy có một bài,
Bốn câu tuyệt cú trêu người thi danh.
Lý ta xem ý cũng linh,
Trong hơn tám chữ, sửa thành mười hai.
Rằng người đã muốn huệ lai,
Há không một vật tặng ai trong này.
Cách bình nghe lọt giọng say,
Hoa tiên phút đã trao tay thị tỳ.
Rằng đây phong vị có gì,
Đầu đề thơ đó kính vì đưa cay.
Xin ai quạt gió tung mây,
Gặp nhau cũng một chuyện hay trên đời.
Mở xem Lý vội vâng lời,
Tây Hồ khai vận một bài luật đây.
Khiêm lời Phùng mới thưa ngay,
Vâng người nhã ý xin rày liên ngâm.
Quê mùa dám nói tri âm,
Dương xuân xin xướng khúc vần cho theo.
Tức thời ngọc nhả gấm thêu,
Một câu bảy chữ, vận đầu chữ Thiên.
Ba người theo vận nối liền,
Đào Nguyên đâu đó cũng duyên tao phùng.
Lần lần Ngô – Lý đã xong,
Ngân nga câu kết đến Phùng chửa nên.
Lầu trong nghe tiếng đọc lên,
Một vần rằng ngã thị tiên đủ bài.
Bỗng đâu ngư phủ một người,
Tay mang giỏ trúc, cá vài đuôi to.
Tiêu dao riêng thú bên hồ,
Ba câu hề đó hát cho nghe điều.
Trong nhà thị nữ ra theo,
Rượu đây cá đấy, ít nhiều nói chi.
Nửa giờ gỏi sống ngon kỳ,
Mỹ nhân rõ vẻ hồng y ra mời.
Mấy khi quý khách qua chơi,
Dẫu rằng nhà hẹp, chiếu ngồi sáng ra.
Của đâu được tặng trong nhà,
Tầm thường dã vị gọi là đỡ say.
Ngô rằng đường đột vào đây,
Người thêm phiền lụy, tôi nay thẹn thùng.
Nhiêu khê câu hát ngư ông,
Nghi lòng Lý mới hỏi cùng mỹ nhân.
Cuồng ca rằng ấy ba vần,
Chẳng qua cá rượu đổi lần có không.
Ba người chén gỏi đương nồng,
“Tam ngư tiên khoái” đứng trong đọc liền.
Lão Phùng tức cảnh ứng lên,
Đem câu “lưỡng cá trúc diên” đáp lời.
Lý ta sẵn nguyệt giữa trời,
Hứng thành nhất đối đọc chơi ướm tình.
Gót sen trở lại trong bình,
Lại câu “trần cách tam sinh” trả người.
Tiệc vui chè chén vừa rồi,
Ba người sắp sửa về nơi trong thành.
Hồ Tây nào cảnh nào tình,
Đào Nguyên phảng phất bên mình đâu đây.
Nghỉ chân mới được vài ngày,
Chốn vui lại nhớ, dấu giày lại đi.
Hòe Nhai phong cảnh còn y,
Tửu lâu hoa tọa thấy gì nữa đâu.
Tận nơi nhìn khắp trước sau,
Gốc hòe có chữ triện sâu mấy hàng.
Bốn câu thơ đó xem tường,
Nghĩ khi hôm nọ rõ ràng gặp tiên.
Phân minh này sự chẳng huyền,
Phùng ta nhớ thuở ngoài biên thấy người.
Lạ cho tiên vẫn trong đời,
Một khi hiển hiện một nơi lâu đài.
Vân du tự ý vãng lai,
Đề huề Quảng, Quế lại hai người hầu.
Quảng Cung kìa thực em dâu,
Quế Cung nay thực gái đầu nhà em.
Bát Tràng riêng cõi thanh am,
Lửa hương nay vẫn tiếng thơm lâu dài.
Hồ Tây từ trở tiên hài,
Hạc trong Bến Thủy, mây ngoài Sóc Hương.
Hà Thanh rồi lại Hoành Quan,
Thanh khoa lãnh thủy, đường ngang bộ hành.
Biết bao di tượng túc thanh,
Giang sơn vẫn đó, tinh anh vẫn còn.

✔ Phần 12: Hiển linh ở Phố Cát

Thạch Thành, Phố Cát trên non,
Ba tầng gác tía lầu son xưa rày.
Âm dương có giếng lạ thay,
Đêm đêm thời cạn, ngày ngày không vơi.
Dưới khe cá khác mọi nơi,
Ăn chay ăn mặn, một loài chia hai.
Đầu đen, bụng trắng mình dài,
Từng lần thay đổi, đua chơi quen người.
Hào Lương chốn ấy là vui,
Chớ đem dao thớt thả mồi tàn tham.

✔ Phần 13: Dấu tích ở Sòng Sơn

Tống Sơn kìa xã Cổ Đam,
Một nơi tú thủy, danh nham đâu tày.
Chín mươi chín suối chầu ngay,
Quanh quanh Tam Điệp núi bày bên sau.
Sòng Sơn cảnh ấy rất màu,
Hiển linh một mộng vương lâu mấy tòa.
Thần Tông thuở hậu Lê ta,
Trên đường kẻ lại người qua chưa tường.
Mắt trần khôn xiết nhỡ nhàng,
Họa dâm, phúc thiện đôi đàng uy linh.
Bách quan tấu đến triều đình,
Trong triều tưởng những yêu tinh tầm thường.
Vừa khi Lê đế, Trịnh vương,
Loan xa thân đến quý hương quê nhà.
Đền Sòng giữa lối trẩy qua,
Hoàng thân, cung nữ một tòa đi theo.
Dưới trời quyền thế lạ gì,
Lọng giương ngựa cưỡi một khi nhỡ nhàng.
Thừa dư giăng lại bên đàng,
Tòng quan mấy kẻ nằm ngang bên bờ.
Quái kỳ trong chốn tờ mờ,
Trở về lòng chúa, lòng vua cả ngờ.
Chiếu cầu phương sĩ bấy giờ,
Kẻ tầm thầy đến, người đưa bùa vào.
Pháp sư lại ngoại quốc nào,
Tiền triều linh tích lại bao đạo tràng.
Lại truyền đình mở các làng,
Bách thần danh vị kiệu, tàn rước đi.
Sòng Sơn tới đó một khi,
Thầy thời hóa quỷ, bùa thì ra tro.

✔ Phần 14: Tam cung phụng chỉ

Lê hoàng nghe nói lòng lo,
Thượng sư nhớ đến sắc cho sứ mời.
Từ Minh, Thanh Hóa đến nơi,
Sư nay đã tịch, con Người còn ba.
Hai quan tả hữu đường xa,
Tiền Quan em ruột ở nhà từ thay.
Đôi lần tinh tiết giục đây,
Ba người đính ước theo ngay vào triều.
Vâng lời vì quốc trừ yêu,
Phong cho thống lĩnh dụ theo ôn tồn.
Gia truyền đã sẵn sơn môn,
Xưa kia lại mệnh Thế Tôn độ người.
Bây giờ phụng chỉ khâm sai,
Quân trong mấy vạn, quân ngoài mấy trăm.
Chỉ đường Tam Điệp sơn lâm,
Bóng cờ tiếng súng ầm ầm chỉn ghê.
Xa xa tiên chúa đã nghe,
Rằng ta đế tử há e người trần.
Tiền Quan giả dạng thường nhân,
Một mình một ngựa ba lần Sòng Sơn.
Chúa ta thấy kẻ phi thường,
Xuống thềm mời đón hỏi tường căn duyên.
Tiền Quan rằng mới được tin,
Xưa kia công chúa vốn trên thiên đình.
Việt Nam từ thuở hiển linh,
Ra tay quỷ khóc, chuyển mình mây tung.
Thế gian thần nữ vô song,
Uy danh tam phủ công đồng đã nghe.
Một điều thái quá chỉn e,
Thương thay những kẻ đi về thác oan.
Lôi đình nổi giận Lê hoàng,
Tìm người thuật sĩ, tính bàn trừ đi.
Hỏi người diệu pháp chi chi,
Hoặc là thiếu thốn xin vì đỡ thay.
Thực lòng chúa đã tin ngay,
Rằng ta phụng chỉ từ ngày trần gian.
Sơ tâm đâu có gây oan,
Nhưng vì hạ giới ngu ngoan nhiều đường.
Trên thời vua chúa chưa tường,
Một phen phải để rõ ràng uy danh.
Bây giờ cưỡi hổ thế thành,
Người nay giúp đó, thiếp đành ơn đây.
Nói rồi đứng dậy ra tay,
Ba nghìn bí quyết thử bày người hay.
Tiền Quan khen phép diệu thay,
Khăn hồng thu lấy trong tay tạ về.
Biết tình tiên chúa mới ghê,
Ma vương bộ hạ bốn bề đuổi theo.
Ba ngày gió táp sấm reo,
Lưng trời sóng dậy ngang đèo cây nghiêng.
Nào hay phép nội cũng thiêng,
Ma vương tiền bộ chạy miền rừng sâu.
Quan quân kéo đến trước sau,
Sòng Sơn lửa đốt, hoa lâu tro tàn.
Dẫu cho biến hóa khôn thường,
Thần long thất thế khôn đường bay ngang.

✔ Phần 15: Đức Thế Tôn cấp cứu

Thế Tôn Phật đã tỏ tường,
Linh sơn xa giá vội vàng xuống ngay.
Tam quan trông bóng năm mây,
Khấu đầu bái yết, chắp tay nghe lời.
Thế Tôn rằng chúa con trời,
Đã cam lỗi trước lại lời hối nay.
Xin người lượng rộng bể đầy,
Cho theo ta chốn thiền trai trụ trì.
Tam quan nghe hết lời từ,
Sợ lòng xin chúa phải y mệnh truyền.
Chứng minh có Phật ở trên,
Cà sa mặc áo, mũ sen đội đầu.

✔ Phần 16: Quy Phật ở Tuyết Sơn

Chúa ta cảm tạ ơn sâu,
Kíp theo gót Phật về tu cửa thiền.
Từ khi quy Phật tâm chuyên,
Tụng kinh thính pháp, thánh hiền chứng tri.
Tuyết Sơn một giải thanh kỳ,
Bây giờ còn dấu tu trì thuở xưa.
Tượng đồng bên Phật sớm trưa,
Lửa binh tầng lớp gió mưa không dời.
Nước dương mát mẻ thảnh thơi,
Sòng Sơn cảnh cũ lại nơi đi về.
Riêng bầu nước chở non che,
Hiện làm mỹ nữ bạn bè vui chơi.
Đức ông thầy Cống một người,
Thiếu niên khoa cử trên đời tài danh.
Trộm nghe Nội đạo cũng linh,
Theo đòi làm lễ môn sinh trong trường.
Tiền Quan rồi lại Hậu quan,
Hai đời học được phép toàn thần thông.
Vừa khi gặp chúa đền Sòng,
Lấy câu phong nhã ra lòng trêu ngươi.
Chúa ta thành ý đón mời,
Rượu trong một đấu, thơ thời trăm thiên.
Thấy tài thượng tọa rước lên,
Dở say thầy Cống duỗi liền tay chiêu.
Rằng như quý chúa tài cao,
Thử nay ra phép xin trèo ngồi đây.
Nghe lời tức khí ngồi ngay,
Sẵn đâu chùy sắt trong tay hiện hình.
Chúa ta đương lúc vô tình,
Nắm tay thần quyết, băng mình bên sông.
Gió mây một trận đùng đùng,
Theo thầy pháp Cống đến trong đạo tràng.
Hậu Quan trông thấy vội vàng,
Cầm ngay đứng lại hỏi tường căn do.

✔ Phần 17: Quy pháp ở Từ Minh

Chúa rằng đạo thánh cũng to,
Nay đà tới cửa rộng cho theo cùng.
Hậu Quan sửa một tĩnh phòng,
Đã ngoài trần tích lại trong thánh đường.
Trước đàn mấy nén tâm hương,
Giảng câu đạo đức, bàn đường khoa kinh.
Nửa năm phép nội cũng tinh,
Đem lòng chúa mới giãi trình Hậu Quan.
Rằng tôi hổ phận hồng nhan,
Gió xuân đã mát, lá vàng thêm tươi.
Lò hồng nồng nực mấy hồi,
Ơn sâu nào biết đến đời nào quên.
Sòng Sơn chốn cũ một bên,
Xin người ra sức ơn trên chu toàn.
Hậu Quan nghe nói dạy liền,
Chúa nay đế nữ khắp miền kính tôn.
Đã vâng Phật, thánh chân ngôn,
Lại nhờ quân chủ gia ơn mấy lần.
Giữ điều hộ quốc tí dân,
Để cùng Nội miếu nghìn xuân lâu dài.
Tạ từ chúa mới vâng lời,
Nửa đêm tiên giá về nơi núi Sòng.
Phân minh báo ứng khắp trong,
Người chiêm bao thấy người đồng thượng lên.
Rằng ta tiên nữ ở trên,
Đã vâng ngọc chỉ xuống miền nhân gian.
Muốn cho nhân phụ, vật khang,
Chốn này phải dựng miếu đường như xưa.
Triều đình tấu lại một tờ,
Hậu Quan nhân việc bấy giờ gửi cho.
Lầu son cửa ngọc phấn tô,
Mã vàng công chúa sắc vua rỡ ràng.
U minh ẩn hiện khôn lường,
Oai linh thần nữ Nam phương ai bì.
Việc thầy pháp Cống mới kỳ,
Sòng Sơn từ lúc thiết chùy cợt chơi.
Xuân vi văn giá hội khôi,
Quyển thi hai thứ mực bôi tăng dòng.
Có khi chầu chực thiên quan,
Sự tình pháp Cống điệp hồng tấu lên.
Ngọc hoàng dặn bảo ở trên,
Đầu đuôi chúa mới một bên giãi bày.
Sòng Sơn giáp mặt từ ngày,
Ái tài con vẫn xưa nay lòng thành.
Lại nhờ Nội đạo uy danh,
Đưa câu bất nhã, dứt tình nan khan.
Nhẽ trời theo phải mà làm,
Oán đành báo oán, lời cam trái lời.
Hậu Quan nghe chuyện hai người,
Gọi thày pháp Cống đến nơi răn lời.
Cõi tiên cảnh đã tới rồi,
Phù danh còn việc trên đời tranh chi.
Anh hùng so sánh nữ nhi,
Tỉnh hồn pháp Cống từ khi đành lòng.
Rành rành những việc trên không,
Tam quan thực lục ở trong chép tường.

✔ Phần 18: Lòng yêu nước của tiên chúa

Chúa từ quy pháp rộng đường,
Riêng lòng yêu nước ngày thường đinh ninh.
Quân vua khi dẹp Chiêm thành,
Một niềm hiệu thuận, hiển linh lại càng.
Sắc phong Chế Thắng đường hoàng,
Lại gia Hòa Diệu Đại Vương chữ đề.
Huyền Tông Cảnh Trị đời Lê,
Ngõa từ có sắc dụ về Sòng Sơn.
Chính Hòa đến hiệu Hy hoàng,
Sái phu mười suất chỉ ban quê làng.
Liệt triều trải mấy đế vương,
Ân phong Thượng đẳng, thần thường trứ linh.

✔ Phần 19: Bản triều gia ân

Triều ta Nam Bắc thanh bình,
Thần minh giúp thế, yêu tinh dẹp quyền.
Gia Long vừa đến tứ niên,
Tiên Hương có dụ đổi tên quê nhà.
Đường đường liệt miếu ân gia,
Làng vân, phố Cát lại là Sòng Sơn.
Trải bao Tây Bắc thương tang,
Nam Sơn như cũ, Tiên đàn như xưa.

✔ Phần 20: Niệm Phật ở Hương Sơn

Ai đem mắt tục còn ngờ,
Hương Sơn kìa dấu bây giờ còn ghi.
Một vùng sơn thủy thanh kỳ,
Trong hang Phật đá một vì thiên nhiên.
Hồng y rõ vẻ người tiên,
Chân kinh đứng đọc, gót sen chưa dời.
Trụ trì vừa tới đến nơi,
Rằng Quỳnh Hoa đó là người tiên cung.
Tưởng câu sắc sắc, không không,
Quy y niệm thiết trong lòng bấy nay.
Nói rồi gió quạt hương bay,
Hoa đèn bóng rõ cung mây người về.
Tháng Ba nay vẫn giữ lề,
Thỉnh kinh niệm Phật hội kỳ chùa Gôi.
Bây giờ chùa ở mọi nơi,
Trời Nam có Phật, tượng Người có bên.

✔ Phần 21: Niệm pháp ở Từ Minh

Lại tuần hôm Tám tháng Giêng,
Thượng sư ngày hội trong đền có tiên.
Trông ra một đóa mây đen,
Ấy là tiên chúa báo tin thăm thày.
Pháp tràng Nội đạo xưa rày,
Tả bên một vị trong này để ghi.
Đại thừa cho hiệu một khi,
Từ Minh sắc Phật Thượng sư tặng người.
Bây giờ phù lục bên ngoài,
Cũng lòng thành kính dám ai thi quyền.

✔ Phần 22: Mở chợ Tiên

Năm năm, mồng Tám tháng Giêng,
Tiên Hương chợ mở một phiên suốt ngày.
Biết bao quán đặt hàng bày,
Đường ngang ngõ tắt của đầy mười phương.
Mua mua, bán bán chen chen,
Đi đi, lại lại, vàn vàn, thiên thiên.
Chợ trời vui vẻ làng Tiên,
Thuế không ngoài ngạch, ơn riêng quê nhà.

✔ Phần 23: Đại hội Tiên Hương

Tháng Ba ngày tới mồng Ba,
Tiên Hương hội mở lại là vẻ thay.
Trống chuông, đàn sáo đêm ngày,
Nhạc trời gần đó tai người xa đâu.
Mấy làng kéo chữ đua nhau,
Đã lời “vạn tuế” lại câu “thái bình”.
Đời Lê tự thuở hiển linh,
Lệ hằng giữ lấy, chớ khinh là thường.
Nghĩa trong vi hiển ai tường,
Bắc Kỳ đã khắp mọi làng khói hương.

✔ Phần 24: Linh thiêng nổi tiếng ở Nam kỳ

Thuận kinh khi đặt âu vàng,
Nam Trung cõi ấy lại càng anh linh.
Núi kia Ngọc Trản thiên thành,
Có chăng rơi chén thiên đình xuống đây.
Quanh quanh Hương thủy nước đầy,
Xa xa Linh Mụ chùa ngay trước đền.
Năm đầu Đồng Khánh sửa thêm,
Nhớ ơn báo đức vua trên lòng thành.
Sẵn nơi sơn thủy cao thanh,
Hai tầng đài gác chênh vênh một thời.
Tầng trên thánh mẫu dung nghi,
Đôi bên tả hữu hai vì tiên cung.
Dưới thời hương án công đồng,
Đôi bên Phật tọa mấy trùng nghiêm trang.
Trong thời bộ viện trăm quan,
Ngoài thời dân dã, bốn phương một lòng.
Có khi kén bắt thanh đồng,
Đạo ngoài có khác, người trong không nề.
Có khi lên miệng cho nghe,
Rằng ta quy Phật chưa hề sát sinh.
Hương hoa thượng điện trai thành,
Chầu văn lại với tụng kinh ấy lề.
Chín mươi cấp đó khắt khe,
Hương Giang mấy ngả theo về chầu lên.
Lưỡng kỳ Nam Bắc tiếng truyền,
Khói mây đi lại dấu tiên cõi trời.

✔ Phần 25: Tổng kết trước sau

Cho hay tiên cũng là người,
Người là tiên ở trên trời lại chi.
Kể từ thượng giới trích đi,
Nghiêng chân bước xuống những vì sảy tay.
Hai mươi năm bấy nhiêu ngày,
Ân ân, ái ái nặng thay hiếu tình.
Đã khi phục mệnh thiên đình,
Bến mê thương lũ u minh không đành.
Mấy khi hiển thị uy linh,
Cũng lòng tế độ chúng sinh lệ gì.
Rộng đường lại biết tu trì,
Phật kia Pháp nọ quy y đều là.
Đâu đâu, đâu cũng làng ta,
Ai đem Thần giáo dạy nhà nước kia.
Văn minh bốn biển đều nghe,
Mở lòng yêu nước bởi về thần trên,
Bụt nhà chớ bảo không thiêng,
Này này thần mẫu ở miền bể Nam.
Còn trời, còn nước, còn non,
Còn lăng còn miếu hãy còn làng Tiên.
Nghìn thu quốc điển còn bền,
Truyền kỳ còn lục, phả biên còn tường.
Lại còn trong sách Nội tràng,
Đôi bên dẫu khác, một đường như in.
Đạo Tiên, đạo Bản, đạo Huyền,
Mà trong thịnh đức nên tin qủy thần.
Lạc Hồng một cõi hải tần,
Trong ngoài biết phép, xa gần tỏ tên.
Mong sao trắc giáng ở trên,
Tí dân hộ quốc lòng xin ghi lòng.
———
>>> Xem thêm:

Có thể bạn quan tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *