Thánh Mẫu Thiên Y A Na – bà chúa Ngọc tối linh của người Chăm

Thánh Mẫu Thiên Y A Na, bà mẹ xứ sở hay còn được gọi là bà chúa Ngọc, người Chăm tôn sùng thành kính gọi tên Nữ thần Poh Nagar (hay Pô Ino Nogar). Tục thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na khá phổ biến ở nam miền trung Việt Nam, đó là kết quả của quá trình dung hội, tiếp biến văn hóa Việt – Chăm và cũng chính từ truyền thống tốt đẹp của người Việt ta về thờ phụng người mẹ mà thánh mẫu Thiên Y A Na đã được dung hội cùng phối thờ trong hệ thống thần linh tứ phủ.

thánh mẫu thiên y a na

Thánh Mẫu Thiên Y A Na

Thánh Mẫu Thiên Y A Na là ai ?

Đối với các cư dân nam miền trung nước ta, Thánh Mẫu Thiên Y A Na –  là vị thần chủ “Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên” trong Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam Phủ ở Miền Trung nói riêng. Thánh Mẫu Thiên Y A Na âm phù dương trợ cho con dân Việt Nam từ xưa đến nay qua nhiều thời kỳ chống giặc ngoại xâm, bày dân trồng lúa, trồng cây đắp phúc, thương yêu với nhau, sống tốt đời đẹp đạo,…tuy chỉ là một vị thần theo truyền thuyết, nhưng đã được cư dân Việt và Chăm thờ phụng rất tôn nghiêm, Mẫu đã được triều đình nhà Nguyễn – Vua Gia Long, xếp vào bậc “Hồng nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng Thần” “Hoằng Huệ Phổ Tế Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tưởng Trang Huy Thượng đẳng thần”.

 

    >>> Xem thêm: Truyền thuyết và bản văn Mẫu Đầm Đa

Truyền thuyết về Ngọc Bà Thánh Mẫu Thiên Y a Na

Truyền thuyết của người Việt kể về Thánh Mẫu Thiên Y A Na

Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa. Năm ấy, đến độ dưa chín, sáng nào ra ruộng thăm, ông bà cũng thấy dưa bị hái trộm. Lạ một điều, chỉ có một quả dưa lớn nhất đẹp nhất là bị hái, nhưng kẻ trộm không ăn mà cũng chẳng mang đi. Quả dưa còn nằm ở một chỗ trống, nhưng bưng lên đã thấy bị nẫu.

Thấy sự lạ, hai ông bà bèn bàn nhau cất công để ý rình. Rồi một đêm trăng sáng, họ đến nấp vào một bụi cây cạnh ruộng. Gần đến nửa đêm, bỗng đâu có cô gái trạc độ mười ba mười bốn tuổi tự nhiên hiện ra ở giữa ruộng dưa. Cô gái rón rén đi, nhìn ngắm từng quả dưa một, rồi sau đó, hình như đã chọn được quả ưng ý nhất thì cúi xuống hái lên. Cô ngắm đi ngắm lại mãi, rồi tìm ra một chỗ trống, tung quả dưa từ tay bên này sang tay bên kia, và cứ như thế, một lúc lâu, sau lại ôm lấy quả dưa mà ngắm nghía mãi không biết chán…

Đúng lúc ấy, từ chỗ nấp, hai ông bà chạy ùa cả ra, nắm ngay lấy tay cô gái. Còn cô gái, tuy không chạy trốn kịp nhưng cũng chẳng tỏ ra có chút gì sợ hãi. Cô trả cho họ quả dưa, và khi được hỏi thì cô lễ phép trả lời: Cô là con nhà nghèo không còn cả cha lẫn mẹ, nhà cô ở cách đây rất xa và cô cũng chẳng nhớ được quê mình ở đâu nữa…

Thấy cô gái dễ thương, lại nghĩ mình không có con cái, nên ông bà bàn nhau nhận cô về làm con nuôi, rồi cả hai cùng nói với cô gái…

Còn cô gái, thấy cử chỉ, lời lẽ của hai ông bà đều chân thành thì cô im lặng lắng nghe và suy nghĩ, rồi sau đó nhận lời.

Cô theo họ về nhà. Sáng hôm sau, hai ông bà sửa lễ gia tiên, rồi hai bên chính thức nhận nhau là bố mẹ và con cái. Từ đấy trong ngôi nhà của họ, không khí vui vẻ đầm ấm hẳn lên. Hai ông bà hết lòng yêu thương chăm sóc cô, còn cô thì cũng rất mực yêu thương kính trọng bố mẹ.

Một hôm trời đổ cơn mưa lớn, nước lũ ở thượng nguồn tràn về mênh mang, khiến mọi người đều ở trong nhà không ai đi làm được cả. Bố mẹ cô, lẽ dĩ nhiên là rất lo lắng, mong sao cho nước mau cạn để cây cối khỏi bị chết úng, thì cô, do tính tình còn trẻ dại, lại thích nô đùa. Rồi cô xuống bên mé nước cậy đá lên, xếp chúng thành một hòn núi giả, lại đi tìm những cành lá gẫy cắm vào xung quanh, để chơi…

Thấy vậy, ông bà bực quá, nghĩ rằng con cái chẳng hiểu được lòng bố mẹ, bèn lên tiếng trách cứ rồi la mắng. Nào ngờ, cô gái thấy tủi thân quá, bèn lủi ra đầu hồi nhà, đứng khóc một mình. Một lúc lâu sau, nhân lúc bố mẹ không ai để ý, cô lại lén ra khỏi nhà, rồi men theo những dải đất cao, đi ra phía bờ biển. Cũng lúc ấy, dập dềnh bên mé nước có một cây gỗ kỳ nam, không biết trôi từ đâu đến. Cô gái còn khóc hồi nữa, rồi nhìn quanh nhìn quẩn, thấy mình hoàn toàn lẻ loi, cô đơn, cô bèn nhảy luôn lên cây gỗ, và một điều kỳ lạ xảy ra: Cô gái đã nhập thân vào cây gỗ. Cây gỗ dập dềnh ở đấy một lúc nữa, như có điều gì còn ghi nhớ và lưu luyến, rồi sau đó, theo sóng biển, trôi mãi lên phương Bắc…

Ông bà bố mẹ nuôi cô gái đang bận việc chẻ củi và may vá trong nhà, tưởng con khóc rồi chơi ở ngoài đầu hồi, nên cũng không để ý. Đến mãi sau, khi lên tiếng gọi thì chẳng thấy con đâu! Hai ông bà bèn nháo nhào đi tìm nhưng khắp chốn cùng nơi, cũng vẫn tuyệt âm vô tín. Nước lụt mênh mang như thế, lại đang cuộn chảy mãi ra biển, họ cho là con gái xảy chân đã trôi ra biển mất rồi. Thế là ông bà gào thét, khóc than thảm thiết, sau đó làm lễ cúng chay cho con, và từ đấy trở đi, sống âm thầm, rầu rĩ cho đến cuối đời…

Còn cây gỗ kỳ nam, sau một hồi dập dềnh rồi trôi lên phương Bắc, và cứ thế trôi mãi… trôi mãi… Đến khi sóng lặng gió yên thì đã trôi được cả ngàn dặm đường và dạt vào bờ…

Một buổi sáng dân địa phương nọ ra bờ biển, vô cùng ngạc nhiên thấy có cây gỗ lạ rất đẹp trôi từ đâu đến. Họ bảo nhau mang thừng chão ra buộc vào rồi cùng kéo lên bờ, nhưng hàng trăm người xúm vào mà cây vẫn không nhúc nhích. Họ bèn đóng cọc ghim lại để tìm kế sách khác, và cũng từ đấy, dường như ngay tức khắc, tiếng đồn về cây gỗ kỳ lạ đã lan ra khắp cả vùng.

Hoàng tử ở phương Bắc bấy giờ vào tuổi kén vợ, đang đi chu du khắp chốn cùng nơi để tìm cho ra một người ưng ý. Khi đến vùng này, nghe chuyện cây gỗ kỳ lạ, chàng cũng tò mò tìm đến. Thấy cây gỗ đẹp thì có đẹp nhưng cũng không lớn lắm mà sao cả trăm người kéo không được thì chàng lấy làm lạ lắm. Cũng vẫn là tò mò, chàng xắn tay áo lên, bảo mọi người cho mình kéo thử một cái xem sao.

Chiều ý Hoàng tử, mọi người lui cả rạ Nhưng thật vô cùng bất ngờ, khi hoàng tử vừa cầm thừng co tay lại thì cây gỗ cũng lập tức chuyển động, rồi dần dần, theo sức kéo mà tiến vào bờ. Đến khi chạm đất, Hoàng tử kéo mạnh một cái nữa thì cây hoàn toàn đã nằm trên bãi biển.

Mọi người vô cùng phấn khởi, vỗ tay reo hò không ngớt. Xong xuôi, sau khi hỏi ý kiến dân làng, Hoàng tử cho quân lính đem cây gỗ về Kinh đô.

Về phía dân làng, tuy cũng có người còn tiếc rẻ, nhưng đa phần cho rằng, đưa cây gỗ về kinh là hợp lý hơn cả vì như vậy tất cả bàn dân thiên hạ sẽ đều được chiêm ngưỡng. Còn về phía Hoàng tử thì cũng chẳng có vui mừng nào hơn, chàng cho là có duyên cớ, bèn không tiếp tục đi tìm vợ nữa, mà cùng quân lính trở về kinh, cùng với cây gỗ.

Khỏi phải nói, khi về đến Kinh đô thì mọi người, mọi nơi nghe tiếng, nao nức tìm đến xem đông như thế nào. Nhưng rồi sự kiện ấy cũng mau chóng qua đi bởi lẽ mọi người nhìn mãi rồi cũng chán, vì cây đẹp thì có đẹp nhưng chẳng thấy có biểu hiện gì là lạ lùng cả. Mà dân chúng cần là cần sự lạ lùng, xưa nay chưa từng có, chứ không phải là một cái cây đẹp.

Chỉ riêng có Hoàng tử, do chính tay mình đã chứng kiến và thực hiện được một điều kỳ diệu, nên còn giữ mãi trong lòng sự vui mừng và niềm mong đợị Khi mọi người đã xem chán xem chê, đến mức không còn ai thiết xem nữa, thì Hoàng tử mới sai quân lính đem cây về trước Đông cung để hàng ngày được nhìn ngắm và gần gũi với cây.

Cây quả là đã có tình ý với Hoàng tử thật. Từ đó trở đi, mỗi đêm trăng sáng, Hoàng tử bỗng thấy trong thân gỗ bước ra một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, và cùng lúc, là mùi hương thơm ngào ngạt tỏa ra theo mỗi bước chân của nàng.

Mê mẩn trước người đẹp, Hoàng tử vội vàng chạy tới, nhưng lần nào cũng vậy, hễ cứ giáp mặt, là người con gái lại biến ngay vào trong thân gỗ.

Sau vài lần như thế, Hoàng tử đã nghĩ ra được một cách, cũng khá đơn giản chứ chẳng có gì ghê gớm lắm. Chàng cho mấy người lính hầu đứng nấp ở xung quanh, còn tự mình cũng nấp saÜn ở gần đấỵ Khi cô gái vừa xuất hiện thì Hoàng tử đã bước ra nắm chặt lấy tay nàng, và mấy người lính cũng lập tức khiêng cây gỗ đem dấu biến đị Hoàng tử bảo cô gái hãy vui lòng vì chàng mà ở lạị Cô gái e lệ cúi đầu. Thế rồi, ngay lúc đó chàng dẫn nàng đến trình với đức vua cha và hoàng hậu, kể lại hết đầu đuôi ngọn ngành, và xin cha mẹ hãy tác thành cho họ.

Nhà vua lắng nghe, rồi nói: “Được. Để xem”, xong cho gọi thị nữ đưa nàng về phòng riêng, còn Hoàng tử thì trở về Đông cung.

Sáng hôm sau thiết triều, nhà vua cho triệu quan Thái bốc lại để bói xem điều lành điều gở thế nào. Sau khi nghe tấu trình là quẻ đại phúc, nhà vua cả mừng rồi ngay sau đó, cho cử đại lễ để hoàng tử sánh duyên cùng cô gái.

Từ đó, cuộc sum vầy của đôi trai gái diễn ra thật vô cùng êm ả, hạnh phúc. Ba năm sau, họ sinh được một gái và một trai.

Tưởng rằng cuộc tình duyên ấy sẽ mặn nồng mãi mãi đến lúc đầu bạc răng long. Nào ngờ Hoàng tử cũng là kẻ bạc tình, chỉ chung thủy được có mấy năm đầụ Khi vợ đã có con thì chàng ta đâm ra hay chơi bời chứ chẳng quan tâm được như trước. Nay rượu, mai cờ bạc, rồi đi dong duổi khắp nơi, không chú ý gì đến việc dạy dỗ con cái. Nàng đã nhiều lần khuyên can nhưng chàng vẫn chứng nào tật ấy, làm nàng rất chán nản. Vì vậy, ở trong hoàng cung, sống giữa nhung lụa, kẻ hầu người hạ không thiếu, mà nàng cảm thấy bơ vơ, rồi buồn tủi xót xa, chỉ muốn tìm cách bỏ đi, không chút luyến tiếc. Bởi vì con người ta vốn là vậy, nên dẫu là thần thánh, thì khi tình yêu đã hết, tất cả sẽ chỉ là vô nghĩa.

Thế rồi một hôm, nhân khi Hoàng tử bỏ đi chơi lâu ngày, nàng tìm thấy cây kỳ nam mà khi trước bọn lính đã đem dấu biệt. Nàng gọi hai con đến rồi đọc một câu thần chú, thế là cả ba mẹ con cùng nhập vào cây kỳ nam. Cây kỳ nam tự chuyển động rời khỏi hoàng cung rồi lăn xuống sông. Từ sông, kỳ nam dòng nước trôi ra biển. Biển lúc ấy bỗng nhiên nổi luồng gió trái. Và theo chiều gió, cây kỳ nam trôi mãi, trôi mãi… Cuối cùng trở lại biển phương Nam.

Đến đúng trước cù lao Huân thì gió lặng và cây kỳ nam dừng lại. Cây trôi vào sát mép nước. Từ thân cây, cả ba mẹ con bỗng chốc hiện ra, bước lên bờ, rồi trở về nhà cũ. Cả hai ông bà cha mẹ nuôi lúc ấy đều đã mất. Nhà vắng vẻ tiêu điều. Ba mẹ con bắt tay ngay vào việc dọn dẹp sửa sang cửa nhà, lập bàn thờ cha mẹ, ông bà tổ tiên, rồi cùng làm ăn sinh sống với dân làng. Từ đấy trở đi, quê hương, vùng cù lao Huân mỗi ngày một thêm ấm no, trù phú. Thế rồi đến một hôm, giữa lúc trời quang mây tạnh, trước sự chứng kiến và ngạc nhiên của mọi người, cả ba mẹ con cùng bay vút lên trời…

Ở phương Bắc, Hoàng tử đi chơi về thấy vợ con mất tích. Tìm cây kỳ nam ngày trước thì cũng chẳng thấy đâu. Chàng hối hận vô cùng, lòng tự nhủ lòng sẽ tìm ra bằng được ba mẹ con, dẫu có phải đi xuống tận địa ngục.

Khi xưa, lúc ở bờ biển chàng có nghe dân chúng nói cây gỗ này trôi từ biển phương Nam lạị Thế là Hoàng tử vào từ biệt vua cha và hoàng hậu, rồi cùng một số gia nhân, binh lính và thủy thủ xuống thuyền, dong buồm vượt biển hướng về phương Nam.

Khi thuyền vừa đúng đến cửa Đại An thì bỗng đâu một trận cuồng phong dữ dội nổi lên. Thuyền đắm, cả Hoàng tử cùng gia nhân thủy thủ đều chìm sâu xuống đáy nước. Nhưng khi cơn bão tan thì tự nhiên biển ở chỗ ấy cũng nổi lên một mô đá nhỏ, vượt cao khỏi mặt nước. Trên mặt mô đá có những hình thù ngoằn ngoèo tựa như những hàng chữ nổi. Từ bao đời nay, đã có nhiều người hay chữ và kiến thức uyên bác đi thuyền tới đó, nhưng chưa ai đọc được đấy là những chữ gì. Và có lẽ như thế nên có thể cho rằng, những điều bí mật của thiên cơ, chắc còn lâu người ở dưới trần gian mới có thể hiểu thấu được hết.

Ba mẹ con nàng tiên đã về trời, nhưng từ đó đến nay vẫn thường hiển linh ở các nơi gần xa quanh vùng cửa Đại An, vùng cù lao Huân, cù lao Yến. Vì vậy dân đi biển, đi đánh cá, đi tìm tổ yến vẫn thường bày lễ vật, thắp hương rồi hướng mặt lên trời cao cầu xin sự che chở, phù hộ độ trì của nàng tiên, mà từ đó trở đi được kính cẩn tôn xưng là bà chúa Ngọc.

Bà chúa Ngọc còn được gọi là bà chúa tiên hay Thánh mẫu Thiên Ya na, theo cách gọi của người Chăm pa, một dân tộc đã định cư lâu dài ở vùng đất này. Từ Huế đến Nha Trang ở đâu cũng có điện thờ bà chúa Ngọc. Triều Nguyễn có sắc thượng phong cho bà là “Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần”.

Truyền thuyết của người Chăm về Thánh Mẫu Thiên Y A Na.

Theo truyền thuyết của người Chămpa, Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa Bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió hương liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước Bà.

Khi Bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân Bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…

Nhiều phép thuật, Bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của Bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng Bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép:

Nữ thần Xứ Trầm hương: Pô Nagar Galâu.
Nữ thần vùng Phan Rang: Pô Tdara Nai Anaith.
Nữ thần vùng Phan Thiết: Pô Bia Tikuk.
Sự tích Nữ thần Poh Nagar và sự tích Bà Thiên Y A NA thật khác hẳn nhau.
Sụ tích Nữ thần Poh Nagar của người Chiêm Thành phản ánh chế độ mẫu hệ của người Chăm ngày trước.

 

Đền Thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na

Điện Hòn Chén

Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cách trung tâm TP. Huế 8 km về hướng Tây Nam. Điện Hòn Chén xưa thờ Nữ Thần Po Nagar của người Chăm. Theo truyền thuyết, Nữ Thần là con của Ngọc hoàng Thượng Đế được sai xuống trần gian, Bà có công lao tạo ra trái đất và các loại gỗ trầm, cây, lúa gạo. Hương mộc và Kỳ Nam là thứ gỗ tượng trưng cho sự linh hiển của Nữ Thần.

Từ di tích độc đáo của người Chăm, người Việt đã dung hợp và phát huy tín ngưỡng này thành nơi thờ Thánh Mẫu & các vị Thánh của người Việt. Đây được coi là sự hòa nhập về tôn giáo hay còn gọi là bản địa hóa cùng kết hợp với nhã nhạc cung đình Huế. Để ký âm cho danh từ Po Nagar bằng Hán văn, các nho sĩ ngày xưa đã phải tạo ra một âm hưởng hao hao và mang một ý nghĩa tương đương nhất định bằng bốn chữ Hán: “Thiên Y A Na”, tên gọi “Thiên Y A Na” là tên gọi của người Việt hay còn gọi là Mẹ Xứ Sở theo Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Tam Phủ. Điện Hòn Chén thờ đầy đủ hệ thống tất cả vị Thánh thuộc Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Tam Phủ của Miền trung với bốn Cõi Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Trung Thiên, Thoải Phủ,  trong đó Tam Tòa Thánh Mẫu bao gồm (Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải) và  Mẫu Trung Thiên. Từ năm 1954, Liễu Hạnh Công Chúa (Vân Hương Thánh Mẫu) cũng được đưa vào thờ ở đây.

Ở Huế, Thánh Mẫu Thiên Y A Na được thờ tại Điện Hòn Chén từ thế kỷ XVI, Làng Hải Cát. Nghi lễ tại Điện Hòn Chén rất long trọng, dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị làng về đình. Lễ hội thuộc Festival Huế về văn hóa dân gian trên sông Hương, tấp nập những chiếc Bằng với cờ phướn, hương án đủ màu sắc, hành hương về Điện Hòn Chén. Nghi Lễ rước Mẫu Thiên Y A Na bắt đầu ở giáo đường Thiên Tiên Thánh Giáo 352 Chi Lăng, Huế -> Điện Hòn Chén -> Đình Làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn cả.

Lễ hội Điện Hòn Chén đã được phục hồi theo các tập tục truyền thống mang đậm màu sắc văn hóa dân gian địa phương. Lễ hội còn được gọi là Lễ Vía Mẹ Vía Cha của Đạo Mẫu Miền Trung nói riêng và Đạo Mẫu Việt Nam.

  • Tháng 2 âm lịch lễ hội xuân tế
  • Ngày 2 -> 3 tháng 3 âm lịch lễ vía Mẫu Thiên Y A Na
  • Ngày 7 -> 10 tháng 7 âm lịch lễ hội thu tế, giỗ Vua Cha Bát Hải Động Đình

Tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na của người Việt ở Khánh Hòa

Có lẽ từ lâu, Thiên Y A Na đã trở thành một vị thần chủ chiếm vai trò quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt ở Khánh Hòa. Bà chính là biểu tượng cho sức mạnh siêu nhiên, sáng tạo ra vũ trụ và là cội nguồn mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Với người Việt ở Khánh Hòa, bà không chỉ là người truyền nghề trồng lúa nước, khai thác rừng mà còn là nữ thần sông nước, nữ thần cai quản biển đảo, nữ thần sóng gió. Người Việt và người Chăm đều có tục thờ Mẫu. Vì vậy, người Việt đã dung hội và biến nữ thần Pô Inư Nưgar thành nữ thần A Na Diễn Ngọc Nương Nương/Thiên Y A Na/Bà Chúa Ngọc/Bà Chúa Xứ Trầm Hương/Chúa Tiên/Bà Chúa Đảo.

 

thánh mẫu thiên y a na

Theo sự tích, nữ thần Thiên Y A Na còn có công ngăn chặn đoàn quân xâm lược của chồng Bà. Vai trò của Thiên Y A Na đã bao trùm một khu vực rộng lớn và triều đình nhà Nguyễn đã ban nhiều sắc phong, tôn bà là “Hoằng Huệ Phổ Tế Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tưởng Trang Huy Thượng đẳng thần”. Vì thế, hình tượng của Bà đã được người Việt ở Khánh Hòa thờ phụng khá phổ biến, từ nông thôn đến thành thị. Bà được tạc tượng thờ phụng dưới nhiều hình thức khác nhau, như: tháp Bà Pô Nagar, miếu Thiên Y A Na, đình làng, lăng ông Nam Hải, chùa, am, miếu Ngũ hành và điện thờ tư gia. Trước hết là tháp Bà Pô Nagar ở thành phố Nha Trang, một trung tâm thờ tự quan trọng nhất của người Việt ở Khánh Hòa, là quần thể đền tháp thờ nữ thần Mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar của người Chăm xưa. Nhưng từ giữa thế kỷ XVII đến nay, đã được Việt hóa và trở thành nơi thờ tự Thiên Y A Na thánh Mẫu.

Điều này được phản ánh thông qua truyền thuyết về Thiên Y A Na thánh Mẫu, có thể được sáng tạo dựa trên mô típ về Thánh Mẫu Liễu Hạnh của người Việt ở Bắc Bộ. Bên cạnh đó, người Việt đã đổi tên các vị thần, tên tháp trong quần thể kiến trúc của người Chăm theo quan niệm của mình. Đó là tháp Ông Bà Tiều phu, cha mẹ nuôi của Bà ở phía Đông Nam. Tháp Chồng Bà, tức chàng trai Bắc Hải. Tháp trung tâm thờ nữ thần Mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar hay còn gọi là Thiên Y A Na thánh Mẫu của người Việt. Tháp Tây Bắc thờ cô, cậu, hai người con của Bà ở phía Tây Bắc. Ngoài ra, người Việt còn đưa bát nhang, các đồ thờ khác, khoác xiêm y lên tượng nữ thần Pô Inư Nưgar của người Chăm. Phải chăng, đây chính là sự mô phỏng theo quần thể kiến trúc thờ Mẫu Liễu Hạnh của người Việt ở Phủ Dầy (Nam Định)? . Có thể nói, tháp Bà Pô Nagar là nơi hình thành, là trung tâm thờ Thiên Y A Na điển hình nhất của người Việt ở Khánh Hòa và miền Trung Việt Nam.

 

>>> Nhấn Subscribe để theo dõi các video về Phủ Dầy Nam Định tại kênh: Phủ Dầy Nam Định Official – YouTube

Có thể bạn quan tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *