Liễu Hạnh công chúa

Liễu Hạnh Công chúa (chữ Hán: 柳杏公主) là một trong những vị nữa thần quan trọng của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ngài còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Thánh Mẫu Liễu Hạnh (柳杏), Mẫu Liễu Hạnh (母柳杏) hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.

Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Liễu Hạnh Công Chúa là một trong bốn vị thánh trong hàng Thánh bất tử. Ngài đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là bậc “Mẫu Nghi Thiên Hạ – Mẹ của muôn dân”. Ngài là vị nữ thần đứng đầu hệ thống tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ của Đạo Mẫu Việt Nam. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh rất tôn nghiêm.

Cung cấm thờ tự Thánh Mẫu Liễu Hạnh (Liễu Hạnh Công chúa) trong phủ Chính Tiên Hương thuộc quần thể Phủ Dầy Nam Định

Sự tích lần giáng sinh thứ nhất của Liễu Hạnh Công Chúa

Căn cứ vào “Quảng Cung linh từ phả ký”, “Quảng Cung linh từ bi ký” và “Cát Thiên tam thế thực lục” hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý di tích – danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm, được Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định thẩm định thân thế và sự tích bà Phạm Tiên Nga ( tức tên phàm của Liễu Hạnh Công Chúa) như sau:

Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam; có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định).

Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 tuổi mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.

Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.

Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẫu thân của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ Phụ thân và Mẫu thân của Phạm Tiên Nga).

Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi). Mẫu đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).

Cùng với việc đắp đê, Mẫu còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dậy dỗ con em nhà nghèo được học hành.

Năm 36 tuổi, Mẫu đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.

Sau đó hai năm, Mẫu tới tu sửa chùa Sơn Trường – Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn – Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn xá – Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn xá, Mẫu còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dậy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.

Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), Mẫu trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy Mẫu trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Mẫu lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.

Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, Mẫu đã hoá thần về trời. Năm đó Mẫu vừa tròn 40 tuổi. Ngay sau khi Mẫu mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ, đồng thời quê mẹ của Mẫu là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của Thánh Mẫu gọi là Phủ Quảng Cung (thờ Công Chúa Liễu Hạnh).

Sự tích lần giáng sinh thứ hai của Liễu Hạnh Công Chúa

Truyền thuyết kể rằng, vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), Phạm Tiên Nga tức Liễu Hạnh Công chúa lại giáng sinh lần thứ 2 tại thôn An Thái, huyện Thiên Bản (nay là xã Kim Thái,huyện Vụ Bản, Nam Định, cách quê cũ Vị Nhuế chừng 7 km). Lần này, ngài kết duyên với ông Trần Đào Lang, sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Mẫu mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, ngài vừa tròn 20 tuổi. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Tiên Hương  xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.

Sự tích lần giáng sinh thứ ba của Liễu Hạnh Công Chúa

Truyền thuyết kể rằng, vì tình nghĩa thuỷ chung với chồng con ở trần thế nên đến thời Lê Khánh Đức thứ 2 (1650), Phạm Tiên Nga lại giáng sinh tại làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, vào ngày 10 tháng 10 năm Canh Dần, tái hợp với ông Trần Đào Lang lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Ngài mất ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thân, thời Lê Cảnh Trị thứ 6 (1668). Năm ấy ngài vừa 18 tuổi, nhân dân lập đền thờ ngài là Phủ Sòng Sơn, Thanh Hoá.

Lăng Mẫu Liễu Hạnh Công chúa

Sự tích về Liễu Hạnh Công Chúa cho thấy ngài là một người con gái tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam rất tài hoa và đức hạnh, một gương sáng cho đời sau:

  • Tận tâm báo hiếu ơn đức sinh thành của cha mẹ,
  • Một lòng chung thuỷ với tình nghĩa vợ chồng,
  • Một tiêu biểu về Công Dung Ngôn Hạnh của người phụ nữ Việt Nam,
  • Một phụ nữ đầy lòng nhân ái, từ thiện, thương yêu nhân dân, cứu khổ cứu nạn những người nghèo khổ, luôn khuyên bảo người khác làm điều lành, tránh điều ác

Trong nhiều thế kỷ qua, nhiều người đến Phủ Dầy để cúng tế, cầu phúc, đều thấy ứng nghiệm. Vì vậy, trong tâm linh tín ngưỡng của họ, ngài được tôn thờ là “Thánh Mẫu Linh Thiêng – Mẹ của muôn dân”.

Lễ hội Phủ Dầy Nam Định hàng năm được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch – đó là ngày hóa của ngài để cầu cho Quốc thái, Dân an, mọi gia đình an khang thịnh vượng. Phủ Quảng Cung ở Nam Định, phủ Đồi Ngang, đền Dâu, đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp (Ninh Bình), Phủ Sòng Sơn ở Thanh Hoá cũng đồng thời tổ chức lễ hội thường kéo dài vài tuần lễ. Riêng lễ hội Phủ Dầy còn gắn liền với chợ Viềng của Mẫu họp vào ngày 7 tháng Giêng đầu năm rất đông vui nhộn nhịp.

Nói chung, các đền thờ Mẫu Liễu, vào những ngày lễ Tết, ngày Rằm, mồng Một âm lịch, ở đâu người đến lễ cầu may cũng rất đông, như phủ Tây Hồ thờ Công chúa Liễu Hạnh ở Tây Hồ Hà Nội cũng vậy có ngày đến hàng nghìn lượt người vào lễ.

 

>>> Xem thêm các video về Phủ Dầy tại kênh chính thức Phủ Dầy Nam Định Official – YouTube

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *