Đức Ông Phò Mã – Phạm Ngũ Lão vị tướng nổi danh nhà Trần

Đức Ông Phò Mã – Phạm Ngũ Lão là một trong sáu vị tướng nổi danh trong Lục Bộ Trần Triều nhà Trần, người có công lớn với đất nước, hết mực phò tá Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ba lần đánh thắng Quân Nguyên Mông. Tuy ông không mang họ Trần nhưng với công lao to lớn và trài trí đức độ của ông đã được nhân dân tôn kính phụng thờ vào hàng Công Đồng Trần Triều (Lục bộ Đức Thánh Ông) ở các đền điện thờ Trần Triều.

Đời Trần Thị giáng sinh danh tướng
Chí làm trai phải có công danh
Thỉnh mời Điện súy tướng quân
Đồng nhân bái đảo thỉnh ông ngự về

đức ông phò mã  - phạm ngũ lão

 

>>> Xem thêm:

 

Đức Ông Phò Mã  Phạm Ngũ Lão là ai ?

Đức Ông Phò – Phạm Ngũ Lão hay còn được gọi là Phạm Điện Súy, Điện Tiền Phò Mã, tướng quân họ Phạm (chữ Hán: 范五老; 1255–1320) dưới thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, ông là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên).

Ngay từ thuở nhỏ, cậu bé Ngũ Lão đã tỏ ra khác thường, tính tình khẳng khái. Khi ở làng có người đỗ Tiến sĩ (Bùi Công Tiến) tổ chức ăn mừng, cả làng kéo đến, riêng Ngũ Lão thì không. Người mẹ hỏi con tại sao không đến, Ngũ Lão thưa với mẹ: “Chí làm trai phải lập công danh rạng rỡ non sông mà con chưa lập được bằng người, đi mừng người ta nhục lắm”

Truyện kể rằng thuở cơ hàn, Đức Ông họ Phạm thường ngồi đan sọt ở ven đường. Khi ấy đội quan của Đức Thánh Trần Hưng Đạo Vương có lần đi ngang qua Đường Hào thấy Phạm Ngũ Lão ngồi vệ đường đan sọt. Quân lính kéo đến dẹp lối đi mà Ngũ Lão vẫn ngồi thản nhiên, đâm cả giáo vào đùi chảy máu mà ông vẫn không nhúc nhích. Thấy sự lạ, Đức Ông hỏi, ông đáp rằng do mải nghĩ một câu trong binh thư nên không để ý. Qua đối đáp trôi chảy của chàng trai nông dân, Hưng Đạo Vương thầm hiểu đây sẽ là một vị lương tướng của triều đình. Ông sai lính lấy thuốc trị vết thương rồi cho cho ngồi cùng kiệu về triều.

 

Sau khi về kinh đô, Hưng Đạo Vương tiến cử Phạm Ngũ Lão lên Triều đình với chức cai quản quân Cấm vệ. Vệ sĩ biết ông là nông dân thì không phục bèn xin tâu được cùng ông thử sức. Phạm Ngũ Lão bằng lòng, nhưng trước khi vào đấu sức, ông xin về quê 3 tháng. Về quê, ngày nào Phạm Ngũ Lão cũng ra cái gò lớn ngoài đồng, đứng cách một tầm mà nhảy lên, nhảy mãi cho đến khi cái gò bị sạt mất một nửa. Hết hạn, ông trở về cấm thành, cùng các vệ sĩ so tài. Thấy ông tiến thoái như bay, tay đấm, chân đá thoăn thoắt, xem ra sức có thể địch nổi cả vài chục người. Từ đó, quân vệ sĩ bái phục ông.

Ông được Hưng Đạo Vương hết mực yêu thương mà đem gả con gái thứ là Quận chúa Anh Nguyên ( tức Vương Cô Đệ Nhị ) cho ông, cũng vì vậy mà người ta gọi ông là Đức Ông Phò Mã. Về lễ giáo nhà Trần tôn thất có lệ chỉ được cưới người trong hoàng tộc cũng vì vậy mà Hưng Đạo Vương phải đổi danh nghĩa cô thành con gái nuôi để gả cho Phạm Ngũ Lão.

Các chiến công của Đức Ông Phò Mã – Phạm Ngũ Lão

Trong hai cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên (1285-1288), Phạm Ngũ Lão đã lập được nhiều chiến công vang dội. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai ông đã cùng với Trần Quang Khải tiến đánh Chương Dương, Hàm Tử, đập tan đội binh thuyền khổng lồ của quân giặc và tiêu diệt chúng chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, Phạm Ngũ Lão được lệnh mang 3 vạn quân phục kích địch ở Vạn Kiếp, ông đã chặn đường rút lui của địch lên biên giới phía bắc và diệt được hai phó tướng quân địch là Lý Quán và Lý Hằng.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, Phạm Ngũ Lão đã cùng các tướng sĩ bày trận phục kích đường rút lui của địch trên sông Bạch Đằng. Trong trận này, quân nhà Trần đã bắt sống được các tướng nhà Nguyên là Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi. Quân của Phạm Ngũ Lão tiếp tục truy kích cánh quân của Thoát Hoan trên đường bộ.

Năm 1290, vua Trần Nhân Tông phong Phạm Ngũ Lão chức vị Hữu Kim Ngô Đại Tướng Quân, giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, . Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được phong lên chức Điện Súy Thượng Tướng Quân, tước Quan nội hầu. Một người con gái của ông có hiệu là Tĩnh Huệ làm thứ phi của vua Trần Anh Tông.

Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi dẹp giặc xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào những năm 1294, 1297 và 1301; hai lần Nam chinh chiến thắng quân Chiêm Thành vào các năm 1312 và 1318, buộc vua Chiêm là Chế Chí phải xin đầu hàng.

Không chỉ có tài về quân sự mà ông còn để lại rất nhiều tác phẩm thơ về chí trai và lòng yêu nước. Hiện nay tác phẩm của ông chỉ còn lưu giữ được hai tác phẩm là Thuật hoài (Tỏ lòng) và Vãn Thượng Tướng Quốc Công Hưng Đạo Đại Vương (Viếng Thượng Tướng Quốc Công Hưng Đạo Đại Vương).

Ngày 1 tháng 11 năm 1320, Phạm Ngũ Lão mất và hưởng dương thọ 66 tuổi. Vua Trần Minh Tông ban ân cho nghỉ chầu 5 ngày, đây là một đặc ân lớn của nhà vua đối với ông.

Nhân dân xã Phù Ủng đã cùng nhau dựng đền thờ ngay trên nền nhà cũ của ông, ông cũng được phối thờ tại đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương tại đền thờ Trần Hưng Đạo.

Tài văn thơ Đức Ông Phò Mã – Phạm Ngũ Lão

Không chỉ có tài về quân sự, ông còn để lại nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Nhưng hiện nay tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài là

Thuật hoài

(Kể nỗi lòng) làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”.
“Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí thế át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.”

Vãn thượng tướng quốc công Hưng Đạo đại vương

(Viếng Hưng Đạo Đại vương) làm theo thể thất ngôn bát cú:

Trường Lạc chung thanh đệ nhất chuỳ,
Thu phong tiêu táp bất thăng bi.
Cửu trùng minh giám kim vong hĩ,
Vạn lý trường thành thục hoại chi.
Vũ ám trường giang không lệ huyết,
Vân đê phức đạo toả sầu my.
Ngưỡng quan Khuê tảo từ phi dật,
Ngư thuỷ tình thâm kiến vịnh thi.

 

Sử sách ghi chép về Đức Ông Phò Mã

Tài năng, đức độ, công lao và uy tín của Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão đã đi vào lịch sử. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi lại khá chi tiết công tích của Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão, tiêu biểu như:

  • Canh Dần (1290), Lấy Hạ phẩm phụng ngự Phạm Ngũ Lão chỉ Hữu vệ Thánh Dực quân.
  • Đinh Dậu (1297), mùa xuân, tháng 2 Ai Lao xâm phạm Chàng Long, Phạm Ngũ Lão đánh bại chúng, lấy lại được tất cả. Ban Vân phù cho Phạm Ngũ Lão.
  • Mậu Tuất (1298) mùa đông, tháng 10, đánh Ai Lao. Lấy Phạm Ngũ Lão làm Hữu Kim ngô vệ tướng quân.
  • Kỷ Hợi (1299), mùa hạ, tháng 4, ngày 12. Lấy Phạm Ngũ Lão làm thân vệ tướng quân kiêm quản quân Thiên thuộc phủ Long Hưng.
  • Tân Sửu (1301) tháng 3, Ai Lao sang cướp Đà Giang, sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, gặp quân giặc ở Mường Mai, giao chiến, bắt được rất nhiều. Phong Phạm Ngũ Lão làm thân vệ đại tướng quân, ban cho quy phù.
  • Nhâm Dần (1302) mùa xuân, tháng giêng. Có đứa nghịch thần tên là Biếm làm loạn. Sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, Biếm bị giết. Phong Phạm Ngũ Lão làm Điện súy, ban cho hổ phù.
  • Nhâm Tý (1312), mùa hạ, tháng 5. Dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về; phong cho hắn là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu trấn giữ đất ấy…

Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà ở thế kỉ thứ XV là Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên đã đánh giá rất cao về tài năng phi thường của ông:

Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm Điện Súy (chỉ Phạm Ngũ Lão) thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, nào phải riêng chuyên về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, hễ tấn công là chiếm được, người xưa cũng không ai có thể vượt qua nổi các ông”. Bài hịch mà Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên nói đến chính là bài Hịch tướng sĩ văn của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, còn lời thơ mà Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên nhắc tới chính là lời thơ trong bài tứ tuyệt Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão.

Đền thờ Đức Ông Phò Mã –  Phạm Ngũ Lão ở đâu ?

Để tưởng nhớ vị tướng tài danh văn võ song toàn, triều đình đã cho lập đền thờ Phạm Ngũ Lão ngay trên nền nhà cũ của gia đình ông ở làng Phù Ủng. Ông được nhân dân các thế hệ, nhất là quê hương ông tôn thờ mà đỉnh cao là lễ hội đền Phù Ủng hằng năm tưởng nhớ công đức của ông.

Theo bia ký, khu đền Phù Ủng được xây dựng từ thế kỷ 14, trùng tu vào thời Nguyễn gồm khu đền chính thờ Điện súy Thượng tướng công Phạm Ngũ Lão, bên trái có lăng Phạm Tiên Công (thân phụ) và bên phải có đền Mẫu (thờ thân mẫu), phía trong có đền Tĩnh Huệ (thờ con gái) và lăng Quốc công Vũ Huy Lượng, làm quan triều Hậu Lê – người có công tu sửa đền thờ và đặt lệ cho việc thờ cúng.

 

Do chiến tranh, ngôi đền chính thờ Phạm Ngũ Lão bị đốt phá năm 1948. Ngôi đền hiện nay được trùng tu và khánh thành vào ngày 10 tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1989), theo kiến trúc cổ gồm 5 gian tiền tế và tòa Hậu cung kiểu chồng diêm hai tầng tám mái. Tại gian Hậu cung có đặt tượng tướng quân Phạm Ngũ Lão trong thế ngồi trên ngai, gương mặt cương nghị, mình mặc triều phục gồm áo cẩm bào và mũ cánh chuồn… đây là bức tượng đồng nặng hơn 300kg được đúc từ thời Nguyễn. Nơi đây còn có tượng vợ ông là quận chúa Anh Nguyên, con gái Trần Hưng Đạo.

Lễ hội đền Phù Ủng được tổ chức từ 1 – 15 tháng Giêng âm lịch (chính hội ngày 11).

Ngoài ra ông cũng được phối thờ tại đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương tại đền thờ Trần Hưng Đạo và nhiều nơi khác. Đặc biệt trong các đền thờ Hưng Đạo Đại Vương thường có cả tượng thờ ông.

Tại đền Phù Ủng ở Hà Nội, nơi vọng thờ Phạm Ngũ Lão có đôi câu đối cổ ca ngợi tài đức và sự nghiệp kỳ vĩ của ông:

Văn thi thao lược, thiên cổ tịnh hiền hào, dược thạch minh bi, hải hồ vịnh sử.
Mông – Thát, Chiêm – Lao, nhất thời giai úy phục, Trần triều kỷ tích, Việt quốc lưu danh.

Tạm dịch:

Văn thơ thao lược, muôn thuở ngợi hùng tài, lời răn khắc đá, biển sông ca vịnh.
Nguyên – Mông, Chiêm – Lào, một thời đều úy phục, triều Trần ghi công, sử Việt lưu danh.

Đó cũng là tấm lòng ngưỡng vọng của nhân dân dành cho ông, vị tướng xuất thân từ nông dân.

Hầu giá Đức Thánh Phạm

Cũng như các giá khác trong Lục Bộ Trần Triều, các thanh đồng sát căn nhà Trần rất hay thỉnh bóng Đức Thánh Phạm về ngự đồng. Khi về ngự đồng ngài mặc y phục màu đỏ, đeo đai đỏ, đội khăn xếp đỏ. Ngài múa chấp kích hoặc giáo xuyên vào đùi hoặc thanh long đao. Ngài thường về tiễn đàn nhà Trần.

Bản văn Đức Ông Phò Mã – Phạm Ngũ Lão

Tán đàn Trần triều

Đời Trần Thị giáng sinh danh tướng
Chí làm trai phải có công danh
Thỉnh mời Điện súy tướng quân
Đồng nhân bái đảo thỉnh ông ngự về.

Vốn xưa chốn Ân thi phố chợ
Sọt ông đan để đựng càn khôn
Đùi kia bị đục máu tuôn là gì
Phạm thị vĩ nhân trần triều nương tướng

Tài kinh luân văn vũ đều tinh
Dũng trí mưu lược hết mình báo quốc
Phá giặc mông nổi tiếng trời nam
Bỗng nghe pháo lệnh nổ đùng

Phục binh kéo tự rừng đông Nội Bàng
Một bên Ngũ Lão chặn ngang,
Một bên Chế Nghĩa hai đàng xông ra
Đôi bên đánh giáp lá cà

Kẻ mong thoát nạn, người chờ lập công.
Thây như núi, máu đầy sông,
Mây tuôn sắc thảm, khói lồng màu tanh
Quân ta càng thắng càng ham

Thoát Hoan vượt khỏi Nội Bàng thoát thân.
Phía sau Trương Quán hậu quân,
Kịp thời Ngũ Lão theo chân chém liền.
Nội hầu tước vua ban ai được

Phá Ai Lao quân bạo phía nam
Tuy thế địch ầm ầm tiến tới
Voi ngàn thớt dậm đất nam ta
Chúng đi chuyển núi bạt ngàn

Quân dân ta sống muôn vàn điêu linh.
Ngũ Lão phụng mệnh xuất chinh,
Trị đoàn binh tượng lập thành cơ mưu.
Gốc tre truyền lấy cho nhiều,

Chừng năm thước một rải theo chiến hào.
Giao binh trông ngọn cờ đào,
Mỗi người một đoạn nện vào móng voi.
Bị đau voi rống từng hồi,

Cuối cùng chúng phải quắp đuôi chạy dài.
Tù binh chiến phẩm thu hồi,
Quân ta toàn thắng vang lời khải ca.
Ai Lao từ đấy cầu hoà,
Tuân theo cống lệ định là tam niên

Dâng sớ

A tấu sớ Thiên Đình ông lên tấu sớ Thiên Đình
Nam Tào Bắc Đẩu Chúa biên rành rành Chúa cho đôi chữ trường sinh
Chữ phú chữ quý, khang ninh thọ trường năm cờ sai trấn năm phương

Khai quang

Có lệnh truyền ra Thánh Ông có lệnh truyền ra
Các quan thoải bộ cùng là chư dinh nam ninh non phạt nam thành
Đánh đông dẹp bắc tung hoành mọi nơi đông thời cửa thiếu cửa đoài .
Ngự lên đồng tử cứu này nhân gian cứu đâu thời đó được an
Cấp sai binh tướng áp lai tĩnh đường

A

Khai quang dung nhan Thập kỳ diệu
Quang minh chiếu Thập phương
Ngã tích tang cúng dàng
Kim phụng hoàng thân cận
Phật Thánh chúa thiên trung vương

Ca lăng tần già Thanh từ bi mẫn chúng sinh
Cố nghĩa kim đỉnh lễ…
A án Nhật nguyệt quang minh
Cân đai mũ áo ra uy khám đàn

Phép ông đôi má thu phình
Cổ lên khăn ấn xiên lình ra oai
Vồ đập khảo chân đi than lửa
Chảo dầu sôi đợi sẵn yêu ma
Tay ấn quyết ra uy dấu mặn
Thần phù ra cứu độ dân oan
Huyết linh đồng tử phép ban

Tán mã

Ông về thu nạp mã man
Thuyền binh tượng mã xếp hàng nghe không
Lệnh truyền trên xập công đồng
Tam quân lục bộ nghe ông dẹp đường
Thu mã man về nơi kiếp bạc
Chuyển trần thương ban phúc cho đồng
Quân Thủy quân bộ đôi hàng
Vào khố vào sổ phân về ba quân

Tán vương cô

Lòng riêng riêng những hỏi lòng,
Biết ai, ai biết bạn cùng tri âm?
Nhớ khi nghe chuyện phụ thân,
Lại khi xem lúc gia nhân thi tài.
Nhắc đi nhắc lại một lời,
Rằng chàng họ Phạm bậc người tài danh.
Tơ kia là vật vô tình,
Bỗng dưng để vướng vào mình như chơi.
Phải chăng âu cũng duyên trời,
Cao xanh biết có chiều người hay không?
Vì ai mà phải đèo bòng,
Vì ai tháng đợi ngày mong đêm chờ.
Người xa nhưng bóng chẳng mờ,
Đêm đêm luống những vật vờ chiêm bao.
“Sớm hôm thơ thẩn ra vào,
Ngày Ngày sáu khắc chẳng khắc nào thảnh thơi
Ai làm cho sợi nhớ thoi,
Cho thuyền xa bến để người nhớ nhau.
Cho tằm ăn rỗi chờ dâu,
Để trầu cánh phượng nhớ cau liên phòng.
Nhớ ai, ai nhớ, nhớ nhung,
Bâng khâng tấc dạ tấc lòng biếng khuây.
Bệnh sao bệnh lạ lùng
Khi đêm mê mẩn, khi ngày thở than
Không ra nhiệt, chẳng ra hàn,
Khôn phân ngoại cảm, khó bàn nội thương.
Nhân duyên đó do trời định sẵn
Đức Thánh Phạm được mối lương duyên
Vương cô dục tú anh linh
Lên duyên tần tấn lên duyên vợ chồng
Đệ tử con dâng bài văn tấu
Ngự đồng nhân tá khẩu thông truyền
Trần Triều là cửa anh linh
Chúc cho chúng tải khang ninh thọ trường

Văn khấn Đức Ông Phò Mã – Phạm Ngũ Lão

(Tham khảo)

Nam mô a di Đà Phật
Nam mô a di Đà Phật
Nam mô a di Đà Phật

Con kính lạy Tứ phủ Công Đồng Trần Triều

Con kính lạy Nguyên Từ Quốc Mẫu Thiên Thành Thái Trưởng Công.

Con kính lạy Đức Thánh Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương Đại Nguyên soái; Tổng quốc chính; Thái sư Hương phụ Thượng quốc công tiết chế; Lịch triều tấn tặng khai quốc an chính hồng đồ tá trị hiện linh trác vĩ; Minh đức trĩ nhân; Phong huân hiên liệt; Chí trung đại nghĩa; Dực bảo trung hưng Thượng đẳng tôn thần; Ngọc bệ tiền.

Con kính lạy Tứ Vị Vương Tử

Con kính lạy Nhị vị Vương Cô

Tả quan Nam Tào; Hữu quan Bắc Đẩu; Lục bộ thượng từ; chư vị bách quan.

Con kính lạy Đức Ông Phò Mã Phạm Ngũ Lão; 

Hương tử con là:………………………………………. ……………………………

Ngụ tại:…………………………………….. ………………………………………….

Hôm nay ngày…. tháng….. năm…….. Hương tử chúng con sắm sửa lễ bái xin các vị phù hộ độ trì cho hương tử con cùng toàn gia quyến được luôn mạnh khoẻ. Đầu năm chí giữa; nửa năm chí cuối; chín tháng đông; ba tháng hè được tai quan nạn khỏi; điều lành mang đến; điều giữ giải đi; cầu tài đắc tài; cầu lộc đắc lốc; cầu bình an đắc bình an. Xin cho con được có người có cửa; được nhân an vật thịnh đi đến nơi về đến chốn; làm ăn được thuận buồn xuôi gió; vạn sự như ý.

Hương tử con lễ bạc tâm thành; trước án kính lễ; cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!

 

>>> Nhấn Subscribe để theo dõi các video về Phủ Dầy Nam Định tại kênh: Phủ Dầy Nam Định Official

Có thể bạn quan tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *