Bản văn Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh (văn cổ)

Trong bài viết này, xin gửi tới bạn đọc bản văn Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh được sưu tầm trong cuốn sách : “Văn chầu: Các bài văn chầu đủ các vị   do biên soạn năm 1929 từ Thư viện Quốc gia Việt Nam thuộc bộ sưu tập sách Đông Dương.

Thần kim ngưỡng phải tấu chư tôn

Tọa vị dương dương nghiễm nhược tồn

Cung thỉnh pháp âm phu huệ lực

Tùy cơ phó cảm giám trần ngôn

Bóng trăng loan mẫu đơn một đóa
Gió lay mành hương xạ thoảng đưa
Có Chầu Nguyệt- diện Tiên xưa,
Lánh về cõi tục, giáng sinh Nam thành
Thánh hóa sinh vào nhà Lê thị,
Cải họ Trần dấu khí thiên hương
Bẩm sinh vẻ có phi phương,
Giá danh đòi một hoa thơm trên đời.
Ngụ đôi quê Phủ dày, Thiên bản,
Phủ Nghĩa hưng là chốn Sơn nam;
Trẻ thơ chưa biết Thánh phàm,
Treo kinh còn vết để làm dấu thiêng.
Tuổi thiếu niên cài trâm giắt lược,
Giá duyên lành khuê phước một nơi;
Gối chăn vừa được quen hơi,
Ai ngờ dưới nguyệt rẽ đôi tơ hường.
Đạo cương thường đương thương đương nhớ
Bỗng hoa hài lại trở gót Tiên;
Giờ Dần mồng ba tháng Thìn,
Đôi mươi mốt tuổi rẽ duyên trần phàm,
Ấy ai làm trêu thương gợi nhớ,
Chẳng hay là giang giở vì đâu;
Lương quân ruột rối đòi nau,
Mẹ cha nào biết thảm sầu mấy cơn.
Rày Chầu đã cung Tiên đền quế,
Biết đâu là trần thế xót xa;
Có phen Tiên cũng nhớ nhà,
Có ngày tháng ngự đường xa hiện về.
Thăm bản quê mẹ cha đất nước,
Cửa nhà Chầu sau trước mọi nơi;
Thăm rồi chúa lại ra chơi,
Cây cao bóng mát là nơi duyên lành,
Ngụ tính tình tiếng tơ tiếng trúc,
Thương những người bạc phúc dân ngây;
Cho nên Chầu mới thử tay,
Biết đâu mà lánh khôn hay mà phòng,
Sự mê mòng thực hư nhường dối.
Lòng trần gian mê muội biết đâu;
Tuy rằng hồn nhiệm phách mầu,
Chẳng thiêng dấu để còn đau đến rày.
Cũng có ngày cưỡi mây nương gió,
Vào Nghệ an sẵn có nhân duyên;
Nước non sao khéo tạm quyền,
Chốn thanh cõi lịch kết duyên cũng vừa.
Ấy kiếp xưa hay là nợ mới,
Hội phi-thường Chầu lại sinh con,
Tuổi vừa ba bốn chửa khôn.
Dịp đâu Chúa lại để con cưỡi rồng.
Chữ sắc không xem còn mới biết,
Dẫu còn chi mà thiết nữa chăng;
Tính thiêng chẳng ngại gió trăng,
Ai ngờ phút hợp phút chăng đoái-hoài.
Song vật-nài làm chi cho khó,
Những duyên lành sẵn có nhiều nơi;
Vậy nên Chầu mới ra chơi;
Đèo ngang, Phố cát là nơi giữa đường.
Giếng Âm-dương xưa nay trong sạch,
Để nước mưa trợ khách đường xa;
Đèo ngang Phố cát vào ra,
Đôi nơi giáp cõi Thanh hoa đất lành.
Thấy cảnh thiên tiên thường ngự đấy,
Khách vãng lai tự đấy khôn hay;
Cho nên Tiên mới thử tay,
Một ngày khôn lạy, hai ngày khôn van.
Khách mắc oan phải nhiều phi-mệnh,
Bèn phải ra đội lệnh nhà Vương;
Ngự tình kíp giận chẳng lường,
Sai binh mã tới Đèo ngang tiễu trừ.
Súng phát ra vang như sấm động,
Dấu thiêng nào dám chống quốc uy;
Vậy nên Chầu mới ra đi,
Than rằng má phấn đâu bì trượng phu.
Nghĩ xét cho âm dương nhị khí,
Lại ra điều lấy ý nạt nhau;
Lệnh trời ai dám chi đâu,
Còn bay ở thế xem nhau sau này.
Chốn Đồi ngang từ ngày ách vận,
Chẳng ai còn dâng tấu hoa hương;
Đền vàng lạnh lẽo tuyết sương,
Đêm thâu nguyệt giãi hoa còn ánh quen.
Các bạn Tiên về tâu Thượng Đế,
Rằng: có Chầu Thánh Mẫu ra chơi;
Đồi ngang Phố cát nghỉ ngơi.
Bụng Hùm dạ thú ra loài bạo hung.
Đã phá xong nơi ăn chốn ở.
Lại phũ phàng sỉ dữ nhuốc nha;
Ngọc Hoàng ngự chỉ ban ra.
TRuyền đòi Tiên thị bách hoa Tiên nàng.
Dưới Đồi ngang ban lời ngự lệnh.
Thăm Chúa-Tiên đức chính làm sao;
Phán rằng có số Thiên Tào,
Mà cho trần thế hỗn hào xót thân.
Trách thôn-hận những người ở đấy,
Sao con trời dám lấy làm khinh;
Bách Thần đòi lại cho rành,
Làm uy cho chóng anh linh không hèn.
Chẳng khá trách dân đen cho quá,
Trời là cha, thiên hạ là con;
Dầu ai cạy mạnh cạy khôn,
Thời nhân gian đó ai còn dám sai.
Ngọc Hoàng đã phán lời nhân thứ,
Ban lệnh truyền phép cứ ra đi;
Đến nơi hỏa tốc tinh phi,
Trước thì thăm Chúa, sau thì trách dân,
Rãy yêu phần càng thêm yêu nghiệt,
Để dân càng sợ khiếp hơn xưa;
Dân mong phải tấu một tờ,
Truyền quan đội lệnh sau xưa được tường,
Đền Đồi ngang thờ Tiên mẫu thánh,
Tự hương tàn khói lạnh đến nay;
lấy làm khuất nước khôn hay,
Uy linh nay lại nhiều người sợ kinh.
Chẳng ai là chẳng giữ minh
Lòng tin một mực sao đành dám sai
Cũng có khi tốt tươi vui vẻ
Phấn điểm trang nhiều vẻ thanh tân
Muôn năm ngưỡng vọng Thánh ân,
Hộ cho tín chủ thiên xuân thọ tràng.

văn thánh mẫu liễu hạnh

Thánh Mẫu Liễu Hạnh vị thần chủ trong Tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt, tương truyền Thánh Mẫu Liễu Hạnh là tiên chúa con Ngọc Hoàng Thượng Đế, do lỡ tay làm rơi chén ngọc mà bị giáng xuống trần vào đêm Rằm tháng Tám năm 1557.

Trải qua “tam sinh, tam hóa”, suốt bao đời nay Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành biểu tượng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, công dung ngôn hạnh. Với tấm lòng hiếu nghĩa thủy chung, trung trinh đức độ, cầm kỳ thi họa, thiện tâm cứu thế, ban lộc giúp đời, thần thông biến hóa, diệt ác trừ gian, giúp dân giúp nước. đã được các triều đại vua Lê, Nguyễn sắc phong nhiều mỹ tự “Thượng thượng đẳng tối linh thần, Chế thắng hòa diệu Đại Vương, Mã vàng Bồ Tát…” là bậc Mẫu Nghi Thiên Hạ, một trong bốn vị Thánh Tứ bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Mời các bạn đọc thêm về sự tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong bài viết: Sự tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh – Phủ Dầy Nam Định 

>>> Nhấn Subscribe để theo dõi các video về Phủ Dầy Nam Định tại kênh: Phủ Dầy Nam Định Official – YouTube

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *